Chủ Nhật, 22 tháng 12, 2013

Chẩn đoán, Điều trị rối loạn thần kinh thực vật

Chẩn đoán, Điều trị  rối loạn thần kinh thực vật

 Rối loạn thần kinh thực vật đã được nói đến vào những năm cuối của thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 với chẩn đoán thấy chủ yếu ở những phụ nữ được gọi là có thần kinh yếu. Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, các bác sĩ dùng từ này để chỉ những triệu chứng mà nay người ta thường thấy ở những người có rối loạn liên quan đến stress với các triệu chứng mệt mỏi, yếu trong cơ thể, hoa mắt, chóng mặt, dễ ngã. Những lúc như vậy, họ thường được bác sĩ khuyên là nên nghỉ ngơi tại giường.
 Hệ thần kinh thực vật (Autonomic Nervous System) là để chỉ những cơ quan hệ thống trong cơ thể chịu sự chi phối của những bộ phận thần kinh hoạt động có tính chất tự động, không theo ý muốn của con người, như là hoạt động thần kinh của loài thực vật như hoạt động của tim, của cơ quan hô hấp, hệ tiêu hóa...
Rối loạn thần kinh thực vật đã được nói đến vào những năm cuối của thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 với chẩn đoán thấy chủ yếu ở những phụ nữ được gọi là có thần kinh yếu. Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, các bác sĩ dùng từ này để chỉ những triệu chứng mà nay người ta thường thấy ở những người có rối loạn liên quan đến stress với các triệu chứng mệt mỏi, yếu trong cơ thể, hoa mắt, chóng mặt, dễ ngã. Những lúc như vậy, họ thường được bác sĩ khuyên là nên nghỉ ngơi tại giường.
Cấu tạo của hệ thần kinh thực vật
                                                                                         
Hệ thần kinh thực vật được cấu tạo bởi nhiều thành phần khác nhau. Một vài phần giúp chúng ta có thể suy nghĩ, kiểm soát cảm xúc, sự vận động của cơ thể và giữ cân bằng của cơ thể. Hệ này xuất phát từ vùng dưới đồi (là một khu vực ở sâu trong não) và từ tủy sống.
                                                                                              
Hệ thần kinh thực vật gồm hệ thần kinh giao cảm và hệ thần kinh phó giao cảm. Sự mất cân bằng của hệ thần kinh giao cảm và phó giao cảm dẫn đến bệnh lý của hệ thần kinh thực vật.
Nguyên nhân của rối loạn thần kinh thực vật
Rối loạn thần kinh thực vật là sự mất cân bằng của 2 hệ thống thần kinh giao cảm và phó giao cảm. Hai hệ thống này về cơ bản gần như trái ngược nhau nhưng đôi khi có tác dụng hiệp đồng ở phạm vi hẹp.
Tác động của hệ thần kinh giao cảm rất đa dạng trên hệ tim mạch (làm co mạch, tăng huyết áp mạch nhanh kích thích tiết mồ hôi); trên hệ hô hấp (làm nhịp thở nhanh, nông). Vì vậy khi cường chức năng giao cảm sẽ gây hồi hộp, trống ngực mạnh, tăng huyết áp, vã mồ hôi, giảm co bóp và tiết dịch đối với một số cơ quan tiêu hóa như dạ dày, túi mật, ruột, dịch vị dạ dày...; co thắt cơ trơn phế quản...
Tác dụng của hệ phó giao cảm thì ngược lại, khi cường chức năng phó giao cảm sẽ làm chậm nhịp tim, tăng co thắt và tăng tiết dịch vị...
Bình thường có sự cân bằng giữa hai hệ thống giao cảm hoặc phó giao cảm duy trì các chức năng bình thường của cơ thể. Khi có rối loạn, việc điều trị chủ yếu để tạo sự cân bằng trở lại giữa hai hệ thống này.
Nguyên nhân gây ra rối loạn thần kinh thực vật vẫn chưa được hiểu biết đầy đủ, nhưng nó có thể bao gồm những nguyên nhân sau:
Những bệnh do nhiễm virut; Những tổn thương ở não; Di truyền; Những tư thế không tốt của cơ thể, ví dụ như gây ra áp lực đối với những động mạch quan trọng hoặc tạo áp lực đối với những dây thần kinh quan trọng của cơ thể; Tiếp xúc với những hóa chất độc hại; Khi có thai; Bệnh di truyền của tổ chức liên kết, đặc biệt là hội chứng Ehlers - Danlos; Bệnh lý tự miễn, đặc biệt là bệnh đái tháo đường; Những bệnh lý thoái hóa thần kinh, ví dụ như bệnh Parkinson; Những bệnh lý chấn thương hoặc tổn thương làm tổn hại hệ thần kinh thực vật, ví dụ chấn thương sọ não, chấn thương tủy sống.
Những biểu hiện thường gặp
Biểu hiện của rối loạn thần kinh thực vật rất phong phú, đa dạng và thay đổi tùy theo từng người. Có những người cảm thấy cuộc sống vẫn bình thường đối với những rối loạn này nhưng có những người thì cảm thấy những rối loạn này làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của họ. Những biểu hiện đó bao gồm: cảm thấy đầu óc chếnh choáng hoặc hoa mắt, chóng mặt; Rối loạn giấc ngủ, thường là mất ngủ; Hay đi đái dắt; Ăn nhanh no; Thể hiện một sự nhạy cảm với ánh sáng quá mức; Đối với nam giới không có khả năng cương cứng dương vật; Rối loạn vận mạch ở da, da nổi mẩn đỏ; Dễ bị rám nắng; Nhịp tim nhanh hoặc có khi là nhịp chậm; Hay đi tiểu tiện, kể cả ban ngày hay ban đêm; Thường xuyên có cảm giác buồn nôn; Rối loạn cương cứng dương vật; Ra mồ hôi quá nhiều; Táo bón hoặc tiêu chảy; Cảm thấy mệt mỏi quá mức; Cảm giác lo âu hoặc hoảng hốt sợ hãi; Tụt huyết áp tư thế, đôi khi có thể dẫn đến ngã đột ngột; Đau ngực, cảm giác khó thở; Đau dây thần kinh; Khô miệng...
Chẩn đoán rối loạn thần kinh thực vật :
                                                                                         
Các khám xét hiện tại không đửaa được tiêu chuẩn đánh giá tổn thương của Hệ thần kinh thực vật, tại Việt Y Đường thông qua máy định hướng chẩn đoán Ddfao pro 3 D quét kiểm tra 3 phút cho kết quả đánh giá chính xác tổn thương của hệ thần kinh thực vật từ vùng dưới đồi não ( hypothalamus) trung tâm chỉ huy của các phản xạ thực vật, dây thần kinh phế vị ( dây thần kinh số X) đánh giá tổn thương trực tiếp đến hoạt động của nhịp tim, phản xạ tiết nước bọt, phản xạ tiết acid của dạ dầy và hệ thống hạch giao cảm và phó giao cảm cạnh cột sống một cách chính xác. Máy không những cho kết quả chẩn đoán chính xác còn có tác dụng theo dõi quá trình điều trị mức độ hưng phấn của thần kinh, mức độ tiết acid dạ dầy, tình tràng của vùng dưới đồi, nhịp tim…với hình ảnh 3D sắc nét, biểu thi máu sinh động. hãy đến khám để trải nghiệm chỉ có chuyên gia tại Việt Y Đường mới có kinh nghiệm chẩn đoán và điều trị rối loạn thần kinh thực vật bằng những phương pháp hiện đại, khoa học, hiệu quả, bệnh ổn định nhanh, an toàn.
Sâm tùng dương tâm điều trị hiệu quả các rối loạn thần kinh thực vật
                                                          
Nếu tìm được nguyên nhân gây rối loạn thần kinh thực vật thì cần chữa theo nguyên nhân nhưng cho đến nay, những rối loạn thần kinh thực vật chưa tìm được căn nguyên thì không có cách để chữa hoặc điều trị triệt để. Hầu như người ta chỉ điều trị triệu chứng của rối loạn thần kinh thực vật như có thể dùng benzodiazepine để điều trị lo âu, hồi hộp, mất ngủ. Dùng những thuốc chống suy nhược cơ thể hoặc những biện pháp làm thích nghi dần với hạ huyết áp tư thế như là nâng cao đầu giường, ăn nhiều bữa ăn nhỏ trong ngày, chế độ ăn mặn hơn...
Rối loạn thần kinh thực vật thường tự khỏi trong vòng khoảng 2 - 3 năm và rối loạn này không có gì nghiêm trọng đe dọa cuộc sống. Tuy nhiên nó có thể làm hạn chế những hoạt động trong cuộc sống hằng ngày của người bệnh từ mức độ nhẹ đến mức độ nặng.        
Điều trị rối loạn thần kinh thực vật chung và chứng cường giao cảm nói riêng bao gồm:
- Nội khoa: dùng các thuốc canxi, sinh tố nhóm B (đặc biệt Vitamin B6), acid glutamic, thuốc an thần… Bên Y học Dân tộc (Đông Y) điều trị bệnh này rất hay vì có thể châm cứu kết hợp lý liệu pháp tắm nóng, tắm lạnh. Ngoài ra nên tập thể dục, tránh căng thẳng, tịnh tâm. Tại phòng khám đa khoa Đông Y Việt Y Đường đã có kinh nghiệm dùng thuốc Sâm tùng Dường tâm thành phần thảo dược tự nhiên, đã qua nghiên cứu tại nhiều Trung tâm Y khoa lớn chứng minh thuốc có tác dụng điều chỉnh rối loạn thần kinh thực vật tương đối nhanh tỷ lệ khởi bệnh 69%, chuyển biến tốt 22%, có chuyển biến 5%. Không có hiệu quả 4%. Nhưng vậy tỷ lệ chuyển biến tốt là 96%, thuốc còn có tác dụng ngủ ngon, ăn tốt, thích ứng điều trị các thể rối loạn nhịp tim như ngoại tâm thu thất, ngoại tâm thu nhĩ, nhịp nhanh xoang, block nhĩ thất cấp 1, 2, thuốc ít tác dụng phụ, đã được bộ Y tế cấp visa lưu hành toàn quốc.
- Ngoại khoa có khi phải đặt ra nếu rối loạn thần kinh thực vật mà hiện tượng tăng tiết mồ hôi quá nhiều, đặc biệt ở lòng bàn chân, bàn tay do trạng thái cường chức năng giao cảm, làm ảnh hưởng đến sinh hoạt, lao động... Trường hợp này bác sĩ chuyên khoa thần kinh có thể làm thủ thuật hủy hạch giao cảm ngực.
Tuy nhiên, thần kinh thực vật là một hệ thống tuần thể nên việc điều chỉnh hoạt động của cả cơ thể mình mới là điều quan trọng nhất. Vì vậy, việc luyện tập yoga hay dưỡng sinh, ngồi thiền... đều rất cần thiết.
Người bệnh nên  luyện tập đi bộ, Yoga, khí công  1 ngày ít nhất 1 tiếng đồng hồ, những bước chân vô thức sẽ tác động rất tốt và điều chỉnh lại hệ thần kinh thực vật. Khoảng 1 thời gian bác sẽ cảm nhận được sự thay đổi rõ rệt nhưng muốn lấy lại cảm giác thì phải tập liên tục trong 6 tháng.
Điều quan trọng là  luôn cần có tâm lý thoải mái, yên tĩnh, không căng thẳng để giải tỏa những áp lực, ngoài ra luyện hít thở sâu cũng rất tốt.
                                                                             VietYDuong clinic

Thứ Bảy, 21 tháng 12, 2013

5 CÁCH ĐƠN GIẢN PHÒNG VÀ TRỊ VIÊM HỌNG

                                                                            (theo TTVN)

PSA VÀ fPSA - Những dấu ấn của ung thư tuyến tiền liệt

                                                                                                    PGS. TS. Nguyễn Nghiêm Luật 




Hình ảnh tuyến tiền liệt (Prostate gland)
Kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt PSA (Prostate Specific Antigen) là một glycoprotein được mã hóa bởi gen KLK3 (Kallikrein-3), có khối lượng phân tử 30.000- 34.000 dalton, có chức năng của một serine proteinase, được tiết ra bởi các tế bào biểu mô của tuyến tiền liệt. Phần lớn PSA trong máu được gắn với các protein huyết tương, một lượng nhỏ (khoảng 30%) của PSA không gắn với protein được gọi là PSA tự do (free PSA), dạng này không có hoạt tính phân hủy protein. Tỷ lệ PSA tự do/ PSA toàn phần (free PSA/ total PSA ratio = fPSA/ tPSA) được đánh giá để chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt khi nồng độ tPSA nằm trong khoảng từ 4 đến 10 ng/mL.Nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt cao nếu tỷ lệ f PSA/ tPSA 0,15 (15%) [4, 5, 6].
Hiện tại, Bệnh viện Đa khoa MEDLATEC có thể định lượng nồng độ tPSA, fPSA và xác định tỷ số fPSA/ tPSA hàng ngày bằng phương pháp miễn dich hóa phát quang  ECLIA (Electrochemiluminescence Immunoassay Analyzers) trên máy Elecsys và Phân tích miễn dich Cobas e.
1.   1. Chỉ định:

1.1. Chỉ định xét nghiệm nồng độ PSA toàn phần trong máu:
xét nghiệm định lượng nồng độ PSA toàn phần trong máu có thể được chỉ định trong các trường hợp sau:
- Sàng lọc ung thư tuyến tiền liệt: theo Cục Quản lý thực phẩm và Thuốc Hoa Kỳ FDA (U.S Food and Drug Administration),  xét nghiệm PSA nên được thực hiện hàng năm để sàng lọc phát hiện sớm ung thư tuyến tiền liệt ở nam giới từ 50 tuổi trở lên. Đối với những người có yếu tố nguy cơ gia đình (bố hoặc anh trai bị ung thư tuyến tiền liệt) cần bắt đầu sàng lọc ung thư tuyến tiền liệt bằng xét nghiệm PSA từ tuổi 40 [1, 3].
- Đánh giá nguy cơ tử vong của những bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt thể khu trú (localized prostate cancer) (không di căn: non-metastatic): xét nghiệm PSA được đánh giá cùng với Tiêu chuẩn phân loại giai đoạn Gleason (dựa trên hình ảnh tế bào nhuộm HE) và phân loại theo lâm sàng.
- Theo dõi hiệu quả điều trị và phát hiện tái phát ung thư tuyến tiền liệt: các mức độ PSA cần được theo dõi sau điều trị ung thư tuyến tiền liệt từ 6 tháng đến 36 tháng tùy theo mức độ nguy cơ của bệnh.
- Việc sinh thiết tuyến tiền liệt để xác định ung thư có thể được chỉ định khi nồng độ PSA toàn phần huyết tương ≥ 2,5 ng/mL hoặc tốc độ tăng PSA toàn phần ≥ 0,75 ng/mL/năm.

1.2. Chỉ định xét nghiệm PSA tự do và đánh giá tỷ lệ fPSA/ tPSA:

Xét nghiệm nồng độ fPSA và việc đánh giá tỷ lệ fPSA/ tPSA được chỉ định để chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt trong các trường hợp nồng độ tPSA máu của bệnh nhân tăng dai dẳng, nằm trong vùng nghi ngờ “gray zone) từ 4 đến 10 ng/mL [4, 5].
2.  2. Ý nghĩa lâm sàng:
Giá trị PSA bình thường
: nồng độ PSA toàn phần trong máu người khỏe mạnh rất thấp, chỉ khoảng < 4 ng/mL. Tuy nhiên, ở những người khỏe mạnh bình thường, do kích thước tuyến tiền liệt tăng theo tuổi nên khi tuổi tăng, mức độ PSA được tuyến tiền liệt bài tiết vào máu cũng tăng theo tuổi:
- Từ 40 – 49 tuổi: PSA  2,5 ng/mL
- Từ 50 – 59 tuổi: PSA   3,5 ng/mL
- Từ 60 – 69 tuổi: PSA   4,5 ng/mL
- Từ 70 – 79 tuổi: PSA   6,5 ng/mL
2.1.Nồng độ PSA toàn phần trong máu tăng trong thư tuyến tiền liệt:
- Về nồng độ PSA toàn phần trong máu:  nồng độ PSA toàn phần trong máu càng tăng, nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt càng cao, phụ thuộc vào độ tuổi. G
iá trị giới hạn (cut-off) cho chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt của PSA toàn phần huyết tương 4 ng/mL với độ nhạy 21% và độ đặc hiệu 91%.  Người ta thấy có sự liên quan giữa mức độ PSA toàn phần và tỷ lệ ung thư tuyến tiền liệt (Bảng 1).
Bảng 1. : Sự liên quan giữa mức độ PSA toàn phần và tỷ lệ ung thư tuyến tiền liệt [2]
Mức độ PSA toàn phần (ng/mL)
Tỷ lệ ung thư tuyến tiền liệt (%)
0 – 2,4
Hiếm gặp
2,5 – 4,0
12 - 23
4,1 – 10,0
25
> 10,0
> 50

-
Về tốc độ tăng PSA toàn phần (PSA velocity) trong máu: ở người bị ung thư tuyến tiền liệt nồng độ PSA toàn phần có tốc độ tăng nhanh hơn ở người bình thường. Người có tốc độ tăng PSA toàn phần > 0,75 ng/mL/năm có nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt tăng, người có tốc độ tăng PSA <  0,75 ng/mL/năm có thể có bệnh tuyến tiền liệt lành tính.

- Để đánh giá nguy cơ tử vong của những bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt thể khu trú, xét nghiệm PSA được đánh giá cùng với Tiêu chuẩn phân loại giai đoạn Gleason và phân loại theo lâm sàng:
Nguy cơ thấp: PSA < 10 ng/mL, số điểm Gleason ≤ 6 và giai đoạn lâm sàng ≤ T2a
Nguy cơ trung bình: PSA= 10-20 ng/mL, số điểm Gleason = 7 và giai đoạn lâm sàng ≤ T2b/c
Nguy cơ cao: PSA >20 ng/mL, số điểm Gleason ≥ 8 và giai đoạn lâm sàng ≥ T3
Tuy nhiên, cần chú ý là, nồng độ PSA toàn phần trong máu có thể tăng trong các trường hợp không phải ung thư tuyến tiền liệt, ví dụ  như trong các bệnh phì đại tuyến tiền liệt lành tính (benign prostatic hyperplasia), viêm tuyến tiền liệt (prostatitis), kích thích tuyến tiền liệt (irritation) hoặc sau phóng tinh. Vì vậy
, để chẩn đoán phân biệt ung thư tuyến tiền liệt với các bệnh tuyến tiền liệt khác, cần phải định lượng thêm PSA tự do và xác định tỷ số fPSA/ t PSA.
2.2. Tỷ lệ fPSA tự do /tPSA trong máu giảm trong ung thư tuyến tiền liệt: 
V
iệc xác định tỷ số fPSA / tPSA được coi là một công cụ hiệu quả cho việc chẩn đoán phân biệt giữa các trường hợp ung thư tuyến tiền liệt với các bệnh không phải ung thư tuyến tiền liệt [4].

Nếu
nồng độ PSA toàn phần huyết tương tăng trong khoảng 4,1-10 ng / mL, giá trị cắt (cut off) của tỷ số fPSA/ t PSA 0,155 có thể giúp chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt với độ nhạy là 85% và độ đặc hiệu 56,5% [5].

Trong thực hành lâm sàng, với nồng độ PSA toàn phần tăng trong khoảng 4,1-10 ng / mL, nhiều tác giả thường chọn giá trị giới hạn của tỷ số fPSA/ t PSA 0,15 làm giá trị cắt để chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt [6]. Điều cần chú ý là, cũng có khoảng 23% bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt có tỷ số fPSA/ t PSA từ 0,15-0,19 và khoảng 9% bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt có tỷ số fPSA/ t PSA 0,20 [6].
KẾT LUẬN
1.  1. Mức độ PSA toàn phần huyết tương 4 ng/mL có thể giúp sàng lọc, chẩn đoán và quản lý ung thư tuyến tiền liệt.
2.  2. Tốc độ tăng PSA toàn phần > 0,75 ng/mL/năm có thể giúp đánh giá nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt.
3.  3. Mức độ tăng của PSA được đánh giá cùng với tiêu chuẩn phân loại Gleason và phân loại theo lâm sàng., có thể giúp đánh giá tiên lượng ung thư tuyến tiền liệt.
4.  4. Khi mức độ PSA toàn phần tăng trong khoảng 4 đến 10 ng/mL, việc định lượng free PSA và xác định tỷ số fPSA/ PSA với điểm cắt 0,15 có thể giúp chẩn đoán phân biệt ung thư tuyến tiền liệt với các bệnh tuyến tiền liệt lành tính khác.
                                                            
 TÀI LIỆU THAM KHẢO
11. 1. Andriole G L, Andriole GL, Crawford ED, et al. Prostate cancer screening in the randomized Prostate, Lung, Colorectal, and Ovarian Cancer Screening Trial: mortality results after 13 years of follow-up. Journal of the National Cancer Institute 2012; 104 (2): 125-132
2.   2. Barry MJ. Clinical practice. Prostate-specific-antigen testing for early diagnosis of prostate cancer. New England Journal of Medicine 2001; 344 (18): 1373-1377.
3.   3. Gomella LG, Liu XS, Trabulsi EJ, et al. Screening for prostate cancer: the current evidence and guidelines controversy. Canadian Journal of Urology 2011; 18 (5): 5875-5883.
4.   4. Ito K, Yamamoto T, Ohi M, Kurokawa K, Suzuki K, Yamanaka H. Free/total PSA ratio is a powerful predictor of future prostate cancer morbidity in men with initial PSA levels of 4.1 to 10.0 ng/mL. Urology 2003; 61 (4): 760-764.
5.   5. Kuriyama M, Kawada Y, Significance of free to total PSA ratio in men with slightly elevated serum PSA levels: a cooperative study. Jpn J Clin Oncol 1998; 28(11): 661-665.
6.   6. Obralic N, Kulovac B, Aganovic D, Junuzovic D. Values of prostate specific antigen in patients with operable prostate carcinoma. Med Arh 2009; 63(1): 34-37.

Nên hay không nên tầm soát ung thư tuyến tiền liệt

Chỉ có 3% mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt (TTL) trong tổng số 1098 người tự nguyện đến tham gia chương trình tầm soát ung thư tuyến tiền liệt tại BV Bình Dân. Kết quả này đã được PGS.TS Vũ Lê Chuyên - Phó giám đốc BV Bình Dân báo cáo trước Hội đồng nghiên cứu khoa học về đề tài “Khảo sát tỷ lệ ung thư tuyến tiền liệt ở nam giới từ 50 tuổi trở lên đến khám tại BV Bình Dân” vào chiều ngày 30/8 tại Sở Khoa học Công nghệ TP Hồ Chí Minh.
Ung thư TTL là ung thư thường gặp đứng hàng thứ hai ở nam giới. Tuy nhiên, hiện nay việc tầm soát ung thư TTL  và khảo sát các đặc điểm của bệnh vẫn chưa được thực hiện tại Việt Nam. Khảo sát này đã mô tả kết quả bước đầu của chương trình tầm soát ung thư TTL tại BV Bình Dân.
Thông qua các phương tiện truyền thông và bảng thông báo, đã có 1098 người tự nguyện tham gia chương trình tầm soát ung thư TTL. Tại đây các bác sĩ sử dụng các phương tiện tầm soát như thông tin về dịch tễ, bệnh sử, khám trực tràng, siêu âm bụng, xét nghiệm PSA/máu, tỷ lệ PSA tự do/toàn bộ, siêu âm trực tràng và kết quả sinh thiết tiền liệt tuyến để tầm soát ung thư TTL.
Kết quả khảo sát cho thấy PSA trung bình tăng theo tuổi, cao nhất ở lứa tuổi trên 80. Đa số các trường hợp có độ biệt hóa vừa và có chẩn đoán giai đoạn ở thời điểm sớm. Với giá trị lựa chọn sinh thiết là PSA trên 10ng/ml thì tỷ lệ chẩn đoán ung thư TTL là 33%. Tuy nhiên với mức PSA từ 4-10ng/ml kèm PSA tự do/toàn thể dưới 20% thì tỷ lệ chẩn đoán ung thư TTL chỉ ở mức 3%. Hiện nay, việc lựa chọn giá trị chuẩn của PSA đang còn nhiều tranh cãi. Nếu chọn PSA từ 4ng/ml trở lên thì tỷ lệ chẩn đoán quá mức có thể lên tới 50%. Vì vậy việc lựa chọn điểm cắt phù hợp là vấn đề quan trọng cần cân nhắc vì việc  tăng tỷ lệ chẩn đoán sớm quá mức cần thiết dẫn đến lãng phí cả về vật chất lẫn tinh thần cho bệnh nhân và nhân viên y tế.
Tuy tỷ lệ ung thư TTL thấp trong dân số nghiên cứu (3%), đa số các trường hợp được chẩn đoán ở giai đoạn sớm và kết quả sinh thiết cho thấy đa số các trường hợp có điểm Gleason (giải phẫu bệnh lý) ở giai đoạn trung bình. Điều này cho thấy sự cần thiết của chương trình tầm soát ung thư TTL. Tuy nhiên việc lựa chọn giá trị chuẩn PSA cũng như sự cần thiết phải tầm soát căn bệnh này cần được nghiên cứu kỹ, tránh việc lãng phí quá mức. Được biết hiện chi phí cho mỗi ca tầm soát ung thư TTL hiện nay là 4 triệu đồng.
Lan Anh